Bảo vệ người tố cáo nhằm khuyến khích mạnh dạn đấu tranh với hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật
Phóng viên: Trách nhiệm của người GQTC khi nhận được văn bản đề nghị các biện pháp bảo vệ ra sao, thưa đồng chí?
Đồng chí Lê Tấn Đạt: Việc bảo vệ người tố cáo nhằm khuyến khích, động viên người dân dũng cảm đấu tranh chống lại các hành vi tham nhũng, tiêu cực, vi phạm pháp luật, giúp các cơ quan nhà nước phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật. Hơn nữa, bảo vệ người tố cáo là trách nhiệm của Nhà nước, là sự thể hiện cụ thể và sinh động bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Theo quy định tại Điều 51 Luật Tố cáo năm 2018 về việc xem xét, quyết định bảo vệ người tố cáo được thực hiện như sau:
Một là, khi nhận được đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ và xét thấy đề nghị bảo vệ là có căn cứ, có tính xác thực hoặc trong quá trình GQTC, người GQTC thấy có căn cứ quy định tại Khoản 3, Điều 47 của Luật Tố cáo thì người GQTC kịp thời quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ theo thẩm quyền hoặc đề nghị, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ cần thiết.
Hai là, khi nhận được yêu cầu hoặc đề nghị của người GQTC, cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định việc áp dụng biện pháp bảo vệ. Ba là, trường hợp đề nghị của người tố cáo không có căn cứ hoặc xét thấy không cần thiết áp dụng biện pháp bảo vệ, cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người tố cáo hoặc gửi thông báo cho người GQTC để giải thích rõ lý do cho người tố cáo.
Các quy định pháp luật về bảo vệ người tố cáo được quy định chi tiết hơn tại Nghị định số 31/2019/NĐ-CP, ngày 10-4-2019 của Chính phủ.
Phóng viên: Hình thức xử lý kỷ luật đối với người GQTC là gì?
Đồng chí Lê Tấn Đạt: Tại Điều 22 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP có quy định 3 hình thức xử lý kỷ luật đối với người có thẩm quyền GQTC như sau:
Thứ nhất, là hình thức kỷ luật khiển trách được áp dụng khi người có thẩm quyền GQTC có một trong các hành vi vi phạm: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong việc GQTC để thực hiện hành vi trái pháp luật; không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm bảo vệ người tố cáo dẫn đến việc người tố cáo bị trả thù, trù dập.
Thứ hai, là hình thức kỷ luật cảnh cáo áp dụng khi người có thẩm quyền GQTC có một trong các hành vi vi phạm: Tiết lộ họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và những thông tin khác làm lộ danh tính của người tố cáo; cố ý không thụ lý tố cáo, không ban hành kết luận nội dung tố cáo; không quyết định xử lý tố cáo theo thẩm quyền hoặc không kiến nghị người có thẩm quyền xử lý tố cáo.
Thứ ba là hình thức kỷ luật cách chức áp dụng khi người có thẩm quyền GQTC có một trong các hành vi vi phạm: Cố ý không giải quyết hoặc cố ý giải quyết tố cáo trái pháp luật gây mất ổn định, an ninh, trật tự xã hội; cố ý bỏ qua các bằng chứng, bỏ lọt các thông tin, tài liệu, làm mất hoặc làm sai lệch hồ sơ vụ việc; bao che cho người bị tố cáo gây mất ổn định, an ninh, trật tự xã hội; không áp dụng biện pháp bảo vệ người tố cáo thuộc thẩm quyền làm cho người tố cáo bị trả thù, trù dập dẫn đến thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe với tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc bị chết.
Phóng viên: Riêng việc xử lý kỷ luật người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức được quy định như thế nào, thưa đồng chí?
Đồng chí Lê Tấn Đạt: Theo quy định tại Điều 23 Nghị định số 31/2019/NĐ-CP, việc xử lý kỷ luật người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức khi người cán bộ, công chức, viên chức biết rõ việc tố cáo là không đúng sự thật nhưng vẫn tố cáo nhiều lần hoặc biết vụ việc đã được cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết đúng chính sách, pháp luật nhưng vẫn tố cáo nhiều lần mà không có bằng chứng chứng minh nội dung tố cáo; cưỡng ép, lôi kéo, kích động, dụ dỗ, mua chuộc người khác tố cáo sai sự thật; sử dụng họ tên của người khác để tố cáo gây mất đoàn kết nội bộ hoặc ảnh hưởng đến uy tín, hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, đơn vị thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Phóng viên: Xin cảm ơn đồng chí!